(Khám phá) Được đưa lên ngôi vì “nhỏ tuổi, dễ bề sai khiến” nhưng vua Duy Tân đã thể hiện ý chí chống Pháp khiến quân Pháp phải bất ngờ
Vua Duy Tân tên thật là Nguyễn Phúc Vĩnh San, sinh ngày 26/8 năm Canh Tý (1900), là con của vua Thành Thái với bà tài nhân Nguyễn Thị Định. Ông cùng vua cha Thành Thái và vua Hàm Nghi là ba vua yêu nước nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam thời Pháp thuộc, có nhiều nỗ lực trong việc tìm cách khôi phục nền độc lập, tự chủ của quốc gia, dân tộc.
Sau khi vua Thành Thái phải thoái vị với lý do bệnh tật và bị đưa đi đày ở Vũng Tàu, thực dân Pháp và triều Nguyễn bàn bạc việc lập người kế vị. Nhằm xoa dịu phản ứng từ nhân dân và sĩ phu yêu nước, Viện Khâm sứ Pháp Lévecque buộc phải chọn con của vua Thành Thái lên nối ngôi.
Vua Thành Thái rất đông con, đáng lẽ người kế vị phải là con trưởng. Thế nhưng, phía Pháp lại không chọn. Viện Khâm sứ đề nghị Viện Cơ mật cho dẫn các hoàng tử của vua Thành Thái tới để lựa chọn. Các hoàng tử có mặt đầy đủ, duy hoàng tử út Vĩnh San, khi đó mới 7 tuổi, đang chui dưới gầm giường bắt dế khiến mọi người nháo nhào đi tìm.
Thấy Vĩnh San nhỏ tuổi, lại tỏ ra nhút nhát, sợ Tây, người Pháp rất ưng ý và chọn để trấn phong. Sách Vua Duy Tân của tác giả Hoàng Hiển xuất bản năm 1995 viết các anh em của Vĩnh San bị loại với nhiều lý do, trong đó quan trọng nhất là “các trẻ thừa kế mang những tật xấu của bố (tức vua Thành Thái), đều có bộ mặt khó coi, tay chân lỏng khỏng, vẻ mặt thâm hiểm”. Mưu đồ của Pháp là đưa một ông vua chưa biết gì về vận nước, không có tinh thần chống Pháp để dễ bề sai khiến về sau, càng nhỏ tuổi càng dễ uốn nắn.
Ngày 28/7 năm Đinh Mùi (1907), hoàng tử Nguyễn Phúc Vĩnh San, 7 tuổi (sử sách thường ghi là 8 tuổi do triều đình xin tăng) chính thức lên làm vua. Cuốn Chuyện những ông hoàng triều Nguyễn ghi chép, khi đó áo quần chưa kịp may, Vĩnh San phải quàng chiếc áo long bào của Thành Thái có đủ cân đai nặng đến 5 kg. Mặc áo vào, nhà vua đi không nổi phải ngồi một chỗ.
Được chọn vì tuổi nhỏ, trông có vẻ ngờ nghệch, ốm yếu, nhưng ngay sau lễ tôn vương một ngày, Vĩnh San tỏ thái độ khác hẳn. Ông không hề tỏ ra sợ Tây, nói năng đúng khẩu khí vương quyền. Tiếp Toàn quyền Đông Dương và Khâm sứ Trung Kỳ, ông vua nhỏ nói thẳng bằng tiếng Pháp. Khi chọn niên hiệu, Vĩnh San lấy chữ “Duy Tân”, có nghĩa là thuật cải cách hoặc nhà vua canh tân (đổi mới). Người Pháp khi ấy muốn dân An Nam mãi lạc hậu để dễ bề cai trị mà Vĩnh San lên ngôi lấy hai chữ “Duy Tân” thì đó là thách thức với thực dân.
Một nhà báo tường thuật buổi lễ tôn vương này chưa tiên đoán được những hành vi chống Pháp của vua Duy Tân sau này, nhưng đã cảm nhận ra được sự nhầm lẫn của thực dân Pháp khi chọn Vĩnh San làm vua nước Nam. Ông đã kết thúc bài báo bằng câu tiếng Pháp tạm dịch là “Một ngày trên ngai vàng đã làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt của một cậu bé lên tám”.
Lên ngôi vua, Duy Tân được người Pháp tạo điều kiện để vui chơi nhằm quên đi việc nước. Nhưng trái lại, Duy Tân miệt mài học tập để am hiểu nhiều lĩnh vực như tiếng Pháp, triết học, chính trị học, luật lệ, triều chính… Ông sử dụng thành thạo nhiều nhạc cụ như đàn nguyệt, đàn tranh, và tiếp thu kiến thức văn hóa, thành tựu của phương Tây. Giáo sư Ébérhard dạy ông Pháp văn, Triết, Chính trị học thường nói với các viên chức quanh mình: “Vị thiếu đế này sẽ là nhân vật không tầm thường”.
Càng lớn, vua Duy Tân càng có những lời nói và cử chỉ tỏ rõ ý chí chống Pháp. Sách Gần 400 năm vua chúa triều Nguyễn ghi chép hàng năm nhà vua và hoàng mẫu đều ra nghỉ mát tại Cửa Tùng. Những ngày nắng đẹp, vua thường ra bãi biển tắm, sau đó chơi trò xây lâu đài cát. Một lần, vua vừa xây xong một thành lũy, quan thị vệ bưng chậu nước tới cho vua rửa tay. Vua Duy Tân chỉ vào thành lũy nhìn viên quan thị vệ hỏi “Tay nhớp dùng nước rửa, thế nước nhớp thì lấy gì rửa”? Viên quan thị vệ hiểu ý nên không dám thốt ra lời nào, chỉ ấp úng. Vua Duy Tân liền nói “Nước nhớp thì chỉ có cách lấy máu rửa mà thôi”.
Một lần khác, quan Thượng thư Nguyễn Hữu Bài mời vua đi câu cho khuây khỏa. Trong khi chờ đợi cá nuốt mồi, không hiểu lưỡi câu của vua Duy Tân vướng phải vật gì mà mắc kẹt không kéo lên được. Nhân đó, vua ra một vế đối “Ngồi trên nước không ngăn được nước/ Trót buông câu đã lỡ phải lần”. Câu đối ngụ ý: Ta tuy ngồi trên ngôi nhưng phải phó mặc đất nước trong bàn tay cai trị của thực dân Pháp, lỡ làm vua thì phải tìm cách cứu dân cứu nước.
Nguyễn Hữu Bài rất cảm kích tấm lòng của vua, nhưng cho rằng lực bất tòng tâm, hiện tại triều đình thế yếu, chưa thể xoay chuyển. Ông cũng ngụ ý mình qua câu đối: “Ngẫm sự đời mà ngán cho đời/ Đành nhắm mắt đến đâu hay đó”. Vua Duy Tân nghe vậy rất lấy làm buồn.
Lúc bấy giờ, tổ chức Việt Nam Quang phục hội do Phan Bội Châu thành lập năm 1912 đã có những hoạt động chống Pháp mạnh mẽ. Biết được vua Duy Tân cũng có hoài bão độc lập tự cường, Việt Nam Quang phục hội muốn tìm cách tranh thủ sự ủng hộ của vua để hoạt động chống Pháp được diễn ra mạnh mẽ hơn.
Bằng cách khiến lái xe của vua Duy Tân xin nghỉ việc, sau đó giới thiệu một hội viên của mình vào, Việt Nam Quang phục hội đã dâng lên vua lá thư nói về sự cơ cực của nhân dân và kể tội ác của giặc Pháp, bày tỏ nguyện vọng nhất quyết đứng lên đánh đuổi giặc ngoại xâm. Bức thư có đoạn: “Kia Mỹ quốc dòng giống rợ đen năm mươi năm còn có thể tự cường, huống chi ta con cháu tiên rồng, 25 triệu nỡ đành hèn yếu. Trời sinh vua thông minh, chính trực, có chí cử binh chống Pháp. Đất sinh người tài giỏi, có quyền đuổi giặc thương dân”!
Vua Duy Tân xem xong thư rất xúc động, tổ chức cuộc gặp bí mật với chí sĩ Thái Phiên và Trần Cao Vân của Việt Nam Quang phục hội. Hai bên cùng thảo luận tình hình quốc nội và hải ngoại, thống nhất kế hoạch khởi nghĩa.
Ngày 3/5/1916, cuộc khởi nghĩa chống Pháp theo kế hoạch của vua Duy Tân và Việt Nam Quang phục hội bắt đầu. Lực lượng chủ yếu là một số lính Việt bị Pháp bắt dồn về Huế chuẩn bị đưa sang Pháp làm lính đánh thuê trong các trận chiến Pháp – Đức và lính khố xanh, khố đỏ trong kinh thành.
Trước đó đêm 2/5, vua Duy Tân đầu đội khăn đen, mình mặc áo đỏ sẫm, quần vải rời khỏi Hoàng thành ra điểm hẹn Phu Văn Lâu. Một chiếc thuyền đưa vua Duy Tân theo dòng Bạch Hổ rồi ngược sông Lợi Nông để đến một ngôi nhà nằm bên mé sông. Thật không may, trước đó hai hôm, một thành viên trong lực lượng nổi dậy đã làm lộ tin. Chiều 2/5, thực dân Pháp ra lệnh thu hết súng của các trại lính Việt, cấm trại không cho lính Việt nào ra ngoài.
Vua Duy Tân được hai vị Trần Quang Siêu và Tôn Thất Đề hộ vệ đến làng Hà Trung để chờ nghĩa quân phát pháo hiệu báo thành công, nhưng đến 3h sáng vẫn không thấy động tĩnh gì. Ban chỉ huy khởi nghĩa biết việc đã bị bại lộ, vội đưa vua Duy Tân ngược thuyền lên miền núi Tây Nam, trụ tại xóm Ngũ Tây, thôn An Cựu, Thừa Thiên. Nhưng mọi việc không qua được mắt tay sai Pháp.
Sáng 6/5, vua Duy Tân và hai thủ lĩnh Thái Phiên, Trần Cao Vân cùng nhiều chí sĩ cách mạng bị bắt. Tòa Khâm sứ Pháp chỉ thị cho Viện Cơ mật phải nhanh chóng xét xử thật nặng những người liên quan đến cuộc binh biến, kể cả nhà vua. Thượng thư bộ Học Hồ Đắc Trung được giao thảo bản án.
Ngồi trong ngục, Trần Cao Vân biết tin này, đồng thời biết Hồ Đắc Trung có lòng trung, bất đắc dĩ mới phải làm việc này nên tìm cách gợi ý Hồ Đắc Trung đổ tội hết cho các chí sĩ để nhẹ án cho vua. Hồ Đắc Trung làm theo. Bản án thảo ra, Trần Cao Vân, Thái Phiên, Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu đều phải tử hình. Nhà vua được xem trẻ người non dạ, bị nghĩa quân lôi kéo nên không bị kết án. Tuy vậy, vua Duy Tân vẫn bị lưu đày sau nhiều lần không chịu thỏa hiệp trước quân Pháp.
Theo cuốn Vua Duy Tân, vị vua yêu nước này đã nói: “Nếu như tôi không có cái nghĩa cử cầm đầu cuộc vận động ấy (tức cuộc khởi nghĩa năm 1916) thì đối với con mắt của dân tộc, tôi được coi như là kẻ hèn nhát, phản bội xứ sở tôi, phản bội cha ông tôi. Bất lực về việc làm nghĩa vụ, về việc bảo vệ xứ sở, về việc bảo vệ lãnh đạo dân tộc mình, thật không xứng đáng với ngôi báu mà tôi đã nhận”. Sự việc vua Duy Tân bị bắt và những hành động khẳng khái của ông trước kẻ thù đã tác động đến dư luận bấy giờ, những người ở Việt Nam và giới Việt kiều ở Pháp.
Đầu tháng 11/1916, vua Duy Tân cùng vua cha Thành Thái bị đày sang đảo Réunion ở châu Phi. Những người được phép đi theo vua là hoàng mẫu Nguyễn Thị Định, hoàng phi Mai Thị Vàng và em ruột Mệ Cưỡi. Do không hợp khí hậu trên đảo, hoàng phi Mai Thị Vàng bị sẩy thai và sau đó không sinh con được nữa. Vua Duy Tân khuyên bà trở về quê hương để giữ gìn sức khỏe. Năm 1921, bà Mai Thị Vàng về Việt Nam, sống một mình đến cuối đời.
Sáu năm sau, vua Duy Tân cưới thiếu nữ Fernande Antier, con gái một gia đình gốc Pháp và sinh được hoàng nữ là Rita Suzy Georges Vĩnh San và ba hoàng tử là Guy Georges Vĩnh San, Yves Claude Vĩnh San và Joseph Roger Vĩnh San.
Tại chốn lưu đày, vua Duy Tân phải trải qua những tháng ngày vất vả, dù vậy ông tiếp tục học. Ở nơi hải đảo xa xôi, không có tin tức khoa học, thời sự, cựu hoàng đã nghĩ ra cách nghiên cứu về vô tuyến điện, để chế tạo ra các máy liên lạc với bên ngoài. Theo một bài báo ở đảo Réunion, cựu hoàng trở thành chuyên gia “tháo ráp một cái máy vô tuyến cũng dễ dàng như đọc một bài diễn văn với một ngôn ngữ tuyệt hảo, để trình bày nguyên tắc của môn khoa học mà ngài đam mê” trong điều kiện thiết bị nguyên liệu thiếu thốn.
Cũng trong thời gian lưu đày, nhiều lần vua Duy Tân muốn tham gia quân đội Pháp nhưng đều bị từ chối vì được cho là khó mua chuộc, lập mưu đồ rời khỏi đảo để tái lập ngôi báu. Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, nước Pháp phải đương đầu với Đức quốc xã. Tướng De Gaulle kêu gọi kháng chiến. Duy Tân gia nhập quân đội và đến năm 1945 được thăng đến cấp thiếu tá. Sau đó, De Gaulle ủng hộ cựu hoàng về Việt Nam tham gia chính sự.
Trước khi về nước, cựu hoàng đáp máy bay từ Pháp về đảo Réunion để thăm các con. Bà Fernande Antier, vợ Duy Tân kể lại: “Được tin cựu hoàng sẽ về thăm nhà, cả gia đình chúng tôi ngồi trông, nhưng sau đó không thấy ngài về. Chúng tôi đánh điện hỏi khắp các sân bay nằm trên đường bay từ Paris về Réunion. Đến chiều hôm sau, chúng tôi đau đớn nhận tin cựu hoàng tử nạn”. Trên đường đến đảo, máy bay đã đâm vào một ngọn núi và rơi gần làng Bassako, thuộc phân khu M’Baiki, Cộng hòa Trung Phi. Hôm ấy là ngày 26/12/1945.
Thi thể vua Duy Tân được tìm thấy và an táng tại nghĩa trang công giáo M’Baiki. 42 năm sau, vào tháng 4/1987, hài cốt của ông được con cháu mang về Huế và an táng trong khu vực An Lăng, bên cạnh mộ vua cha Thành Thái.